Expert Care
By skilled surgeons
Viêm túi thừa
Thuật ngữ bệnh viêm túi thừa (diverticulitis) xuất phát từ từ tiếng Latin diverticulum, có nghĩa là “sự chệch hướng nhỏ khỏi con đường bình thường”. Đại tràng hay trực tràng là một phần của đường ruột chứa những chất cặn bã để đào thải ra khỏi cơ thể. Các mạch máu nhỏ cung cấp máu cho trực tràng hoặc đại tràng bằng cách đi qua lớp cơ của đại tràng, do đó tạo ra một khiếm khuyết nhỏ khiến lớp lót bên trong có thể nhô ra hoặc thoát ra ngoài. Những phần nhô ra nhỏ này được gọi là túi thừa.
Mức độ phổ biến của bệnh
Áp lực được tạo ra bởi sự co thắt cơ ở bên trái (sigmoid) của đại tràng lớn hơn đáng kể so với bên phải (đại tràng lên). Thực tế này giải thích tại sao túi thừa lại phổ biến ở bên trái hơn bên phải của đại tràng. Tỷ lệ mắc bệnh viêm túi thừa rõ ràng tăng theo độ tuổi. Mặc dù khá hiếm gặp trong 4 thập kỷ đầu đời nhưng bệnh phát triển đạt tần suất 50% ở những người trên 65 tuổi.
Triệu chứng
Một điều rất quan trọng là phải thừa nhận rằng, triệu chứng phổ biến nhất của bệnh viêm túi thừa là không có triệu chứng nào! Nói cách khác, bệnh viêm túi thừa đại tràng thường không gây bất tiện và không có triệu chứng. Túi thừa xuất hiện mà không gây đau, viêm hoặc chảy máu được gọi là bệnh túi thừa. Khi túi thừa gây ra các triệu chứng, chúng ta có thể thấy một trong hai trường hợp: đầu tiên các túi thừa có thể vỡ trong ổ bụng, gây kích ứng và viêm cục bộ hoặc tạo ra áp-xe. Tình trạng này được gọi là viêm túi thừa cấp tính. Hậu tố “itis” có nghĩa là viêm. Vì vậy, túi thừa bị viêm được gọi là viêm túi thừa. Bệnh nhân bị viêm túi thừa thường mô tả cơn đau khởi phát khá đột ngột ở bụng dưới bên trái phía trên đại tràng sigma. Cơn đau thường khá nhẹ và có liên quan đến sốt và số lượng bạch cầu tăng cao. Ngoài ra, chúng có thể bắt đầu gây chảy máu ở trực tràng với một lượng đáng kể mà không gây đau đớn. Thường thì rất hiếm khi chảy máu một lượng nhỏ. Khi túi thừa chảy máu, lượng máu thường khá lớn – khoảng một lít hoặc hơn. Trường hợp chảy máu này xảy ra mà không có bất kỳ tình trạng viêm nào. Nguyên nhân là do mạch máu gần túi thừa bị suy yếu. Còn nguyên nhân khiến cho thành đại tràng yếu thì vẫn chưa được rõ.
Chẩn đoán
Viêm túi thừa cấp tính thường có thể được chẩn đoán dựa trên bệnh sử điển hình và qua thăm khám trực tiếp. Bệnh nhân có cảm giác đau đáng kể ở đại tràng sigma, nằm ở bụng dưới bên trái. Nếu bệnh nhân sốt và có lượng bạch cầu tăng cao thì được xem là xác nhận chẩn đoán. Thuốc xổ bari hoặc chụp X-quang đường tiêu hóa dưới không hữu ích trong việc xác định tình trạng này vì túi thừa vỡ không được nhìn thấy trên X-quang. Chụp CAT hoặc siêu âm vùng bụng dưới có thể rất hữu ích trong việc phát hiện khối viêm trên đại tràng sigma.
Chảy máu túi thừa có thể khó chẩn đoán hơn một chút và thường là “chẩn đoán loại trừ”, có nghĩa là trên thực tế không thể tìm thấy nguyên nhân nào khác gây chảy máu ngoại trừ túi thừa. Lúc này, các túi thừa được xem là thủ phạm. May mắn thay trường hợp này không phổ biến. Dưới 5% số người bị viêm túi thừa đại tràng sẽ bị chảy máu. Hiếm khi túi thừa bị chảy máu hoặc bị loét có thể được nhìn thấy tại thời điểm nội soi. Chúng tôi áp dụng các thủ thuật chụp X-quang chuyên biệt sử dụng chất đồng vị được tiêm vào tế bào hồng cầu của bệnh nhân, hoặc thủ thuật chụp X-quang (chụp động mạch) đưa ống thông và chất cản quang vào động mạch cung cấp máu cho túi thừa đang chảy máu để thấy chất cản quang bị rò ra từ túi thừa.
Điều trị
Viêm túi thừa cấp tính được điều trị bằng kháng sinh trong vòng từ 7 – 10 ngày. Những loại kháng sinh này thường phải được tiêm thông qua tĩnh mạch. Chế độ ăn uống thường bị hạn chế nghiêm ngặt trong vài ngày đầu điều trị. Hầu hết bệnh nhân sẽ hồi phục hoàn toàn, nhưng bệnh nhân sẽ phải phẫu thuật nếu viêm túi thừa tái phát hoặc thủng đại tràng do viêm túi thừa. Trong trường hợp thủng đại tràng thì cần phải phẫu thuật tạo hậu môn nhân tạo. Hậu môn nhân tạo có thể sử dụng thay thế trong 2 – 3 tháng. Túi thừa chảy máu được kiểm soát ban đầu bằng cách theo dõi bệnh nhân chặt chẽ về tốc độ mất máu và truyền máu nếu cần thiết. May mắn là thường thì máu sẽ ngừng chảy. Nếu không, cần phải phẫu thuật cắt bỏ phần đại tràng chứa túi thừa chảy máu. Loại phẫu thuật này thường được thực hiện như một ca mổ cấp cứu.
Phòng ngừa
Có nhiều tài liệu nhưng rất ít bằng chứng cho thấy có thể thực hiện các biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn sự tái phát của bệnh viêm túi thừa chảy máu đại tràng hoặc viêm túi thừa cấp tính mà không cần phẫu thuật cắt bỏ. Trong số những trường hợp bị chảy máu, khoảng 15% sẽ bị chảy máu tái phát lần hai. Nếu xảy ra chảy máu tái phát lần hai, nguy cơ tăng lên 50% sẽ có lần thứ ba. Khoảng 25% bệnh nhân viêm túi thừa cấp tính sẽ bị tái phát. Nhiều trường hợp trong số này sẽ phải phẫu thuật cắt bỏ. Các bác sĩ khuyến khích việc áp dụng chế độ ăn uống giàu chất xơ hoặc sử dụng thuốc làm mềm phân nhằm ngăn ngừa bệnh tái phát. Về lý thuyết, một khối lượng lớn chất thải tích tụ trong đại tràng dưới dạng chế độ ăn uống giàu chất xơ sẽ giúp ngăn ngừa tái phát do hạn chế được áp lực cao cục bộ xảy ra. Thực tế thì không ai biết liệu việc này có ích hay không.